Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Tác phẩm Đồng dao cho người lớn

ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN

ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN

Thơ: Nguyễn Trọng Tạo
Nhạc: Đỗ Triệu An
Ca sĩ: Hồng Mơ
Phối khí: Bùi Đức Thịnh

ĐỒNG DAO CHO NGƯỜI LỚN
có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
có con người sống mà như qua đời
có câu trả lời biến thành câu hỏi
có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
có cha có mẹ có trẻ mồ côi
có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
có cả đất trời mà không nhà ở
có vui nho nhỏ có buồn mênh mông
mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
có thương có nhớ có khóc có cười
có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi.
1992

NGHỆ THUẬT CỦA TƯƠNG PHẢN

Nguyễn Bách
Đến nghĩa trang chính của Vienna, thủ đô nước Áo, du khách sẽ bị quyến rũ bởi kiến trúc đầy nghệ thuật, đa dạng, toát lên vẻ bình yên của những ngôi mộ của các danh nhân.
Nổi bật trong số đó là nơi an nghỉ của 2 nhà soạn nhạc lừng danh người Đức: Ludwig van Beethoven và Johannes Brahms. Trên mỗi ngôi mộ chỉ vọn vẹn một chữ là:  BEETHOVEN và BRAHMS. Không cần tước hiệu, tên gọi hay một ghi chú nhỏ nào khác, nhưng hậu thế đều biết đó là những người đã cùng với Johann Sebastian Bach hình thành nên 3 chữ “B” vĩ đại không chỉ riêng cho nền âm nhạc kinh điển của Đức mà của cả thế giới. Tôi cũng vừa nghe đi nghe lại nhiều lần một ca khúc nghệ thuật mà tôi tình cờ nhận được cách đây hơn một năm, bài “Đồng dao cho người lớn” (Thơ: Nguyễn Trọng Tạo; Nhạc: Đỗ Triệu An [còn được biết với tên gọi: Xuân Tư]; Phối dàn nhạc: Bùi Đức Thịnh). Đối với nhiều người nhất là giới văn hóa, nghệ thuật, có lẽ cũng không cần phải ghi chú hay giải thích gì thêm về những tên gọi của bộ ba này. Điều đáng ghi lại ở đây là ấn tượng đẹp mà tác phẩm chung của họ, “Đồng dao cho người lớn” đã đem lại cho tôi.
Trong bất cứ loại hình nghệ thuật nào, sự tương phản là một trong những nhân tố quan trọng đưa đến thành công. Đối với một tác phẩm âm nhạc, yếu tố tương phản thường được thể hiện trong nghệ thuật biểu diễn. Ở đây, ngay từ tên gọi của ca khúc đã làm chúng ta phải tạm dừng bước, suy nghĩ. Đồng dao nhưng không dành cho nhi đồng. Ca khúc nhịp đồng dao trẻ thơ nhưng ca từ hàm ý giáo dục người lớn. Toàn bộ ca từ là những hình ảnh, phạm trù tương phản mạnh mẽ nhưng được nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo kết nối tài tình để tạo thành những thực thể không chỉ tồn tại trên giấy mà hiện diện đầy tính “chất vấn” trong tâm trí người nghe.
Có những ca khúc mang từ rất lạ, rất phức tạp nhưng thuộc loại “hiểu được, chết liền”! Gần đây lại có những ca khúc với ca từ được xem là “thảm họa”Ở “Đồng dao cho người lớn” chỉ gồm những từ ngữ mà trẻ thơ cũng hiểu được nhưng lại khiến người lớn suy tư, những ca từ thuộc loại “trong đơn sơ vẫn có nét cao vời”. Đó là nghệ thuật của sự tương phản. Luật được làm ra vì lợi ích của con người chứ con người sinh ra không phải để giữ luật. Trong nghệ thuật cũng thế. Luật tránh điệp ngữ tuy được đặt ra, nhưng biết sử dụng điệp ngữ đúng cách, đúng chỗ thì lại là một nghệ thuật. Cách dùng lặp lại nhiều lần cụm từ “có…..mà….” của Nguyễn Trọng Tạo trở thành nét duyên nghệ thuật không thể tách rời khỏi ca từ của bài hát. Và nét duyên này thêm mặn mà hơn, “đắt” hơn khi được nhạc sĩ Đỗ Triệu An dùng thủ pháp lặp lại từng phần để xây dựng nên các câu nhạc trong ca khúc này. Sự lặp lại là một yếu tố không thể thiếu trong một sáng tác âm  nhạc. Lặp lại để lưu lại trong ký ức. Lặp lại để “người lớn” có thời gian suy tư về “đồng dao” dành cho mình. Ở đây, thủ pháp lặp lại của Đỗ Triệu An còn tạo nên một tiếng vọng vang lên từ ca khúc đến tâm thức người nghe. Thủ pháp phát triển đã quyện chặt lấy nội dung thi ca:
Có những cánh rừng đã chết (đã chết) nhưng vẫn sống trong tôi (vẫn sống trong tôi)/ Có những con người đang sống (đang sống) mà như qua đời (mà như qua đời)/ Có câu trả lời đã biến thành câu hỏi (biến thành câu hỏi) ...
.
Sự tương phản còn được Đỗ Triệu An khai thác trong “kiến trúc” của câu nhạc (paragraphing). Một đường nét (contour) giai điệu theo hình cung mở lên (ví dụ: Có những cánh rừng đã chết, đã chết) luôn được nối tiếp bằng một đường nét giai điệu hướng xuống (ví dụ: nhưng vẫn sống trong tôi/ vẫn sống trong tôi). Kiểu kiến trúc giai điệu này phối hợp với những chuyển động nhảy quãng xa tạo nên từng đợt sóng (lớn) con sóng (nhỏ) làm cho lòng người nghe luôn chất vấn, tự hỏi dưới vẻ bình yên của ca từ. Tác giả đã tạo nên câu nhạc không chỉ theo cảm xúc tự nhiên mà còn như một nhà thiết kế (music designer). Nghệ thuật cũng cần có cách làm việc khoa học.
Những tương phản tưởng chừng như mâu thuẫn của ca từ, của âm nhạc trong “Đồng dao cho người lớn” sẽ mãi mãi bất động, không là âm nhạc (bởi âm nhạc là một nghệ thuật động) nếu không được nhạc sĩ phối khí mặc cho trang phục xứng hợp. Bài đồng dao này không phải là những ca khúc “nhỏ” để “trẻ em” hát nghêu ngao trên đường phố mà đã được nhạc sĩ Bùi Đức Thịnh mặc cho bộ cánh sang trọng, xứng tầm với những “người lớn” qua kiểu phối nhạc theo phong cách giao hưởng. Ngay từ phần mở đầu của ca khúc, nét tương phản đã được khai thác bằng tiếngkèn clarinette lững thững, phiêu diêu được cả dàn nhạc đối đáp một cách mạnh mẽ. Sau đó, trên nền của dàn nhạc dây và bước đi đều đặn của contrebasse được diễn tấu pizzicato, các nhạc cụ violon, piano, harpe,… lần lượt “tung tăng” phô diễn nét đẹp của mình làm cho giọng hát dầy, âm vực rộng và đầy kỹ thuật của Hồng Mơ thêm sang trọng, siêu thoát. Kịch tính, sự tương phản của dàn nhạc giao hưởng được đẩy cao với sự xuất hiện của trống timpani và cymbale ở cao trào giữa tác phẩm. Cách chọn lựa và sử dụng nhạc cụ của người nhạc sĩ phối khí đã làm sống động những tương phản của “Đồng dao cho người lớn”. Bùi Đức Thịnh đã gắn tính nghệ thuật vào ca khúc này.
Thế đó, bộ ba: Nguyễn Trọng Tạo (thơ), Đỗ Triệu An (nhạc), Bùi Đức Thịnh (phối khí) đã sáng tạo nên một bản đồng dao hay, đầy tính nghệ thuật, một nghệ thuật của sự tương phản dành cho… người lớn, đặc biệt là những “người lớn tử tế” bởi có nhiều người lớn nhưng chưa trưởng thành!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét